Huyền thoại về sự suy thoái dân chủ

Thông tin chi tiết

Bài báo: Is Democracy in Decline? – The Myth of Democratic Recession (Liệu dân chủ có đang suy tàn? – Huyền thoại về sự suy thoái dân chủ)

Tác giả: Steven Levitsky và Lucan Way

Tạp chí: Journal of Democracy, Issue 1, Volume 26

Chuyển ngữ: Minh Anh & Vi Yên (Nhóm Tinh Thần Khai Minh)

Hướng dẫn trích nguồn: Steven Levitsky và Lucan Way, “Is Democracy in Decline? – The Myth of Democratic Recession” (Liệu dân chủ có đang suy tàn? – Huyền thoại về sự suy thoái dân chủ, bản dịch của Minh Anh & Vi Yên nhóm Tinh Thần Khai Minh), Journal of Democracy 26 (tháng 1 năm 2015): trang 45 – 58.

 

Tải về tại đây:

 

– LIỆU DÂN CHỦ CÓ ĐANG SUY TÀN? –

HUYỀN THOẠI VỀ SỰ SUY THOÁI DÂN CHỦ

Tác giả: Steven Levitsky và Lucan Way

Chuyển ngữ: Minh Anh & Vi Yên [Nhóm Tinh Thần Khai Minh]

 

Steven Levitsky giáo sư [professor] về chính quyền tại Đại học Harvard. Lucan Way là giáo sư [associate professor] ngành khoa học chính trị tại Đại học Toronto. Họ là đồng tác giả của tác phẩm Competitive Authoritarianism: Hybrid Regimes After the Cold War (2010).

Càng ngày, người ta càng đồng ý rằng thế giới đã rơi vào “sự suy thoái dân chủ”. Các nhà quan sát hàng đầu và những người ủng hộ dân chủ mô tả thập kỷ qua là một giai đoạn “thụt lùi”, “xói mòn”, hoặc “suy giảm”1 của dân chủ, ở đó các nền dân chủ mới đã không chống đỡ nổi trước một “cơn sóng độc tài mạnh mẽ”.2 Chẳng hạn, trong một bài báo có tựa đề “The Great Democracy Meltdown”, Joshua Kurlantzick đã tuyên bố rằng nền tự do toàn cầu đang “rơi tự do”.3 Một nhà quan sát khác cho rằng “trong thực tế chúng ta đang chứng kiến khởi đầu của sự kết thúc của dân chủ”.4

Không khí ảm đạm này được thể hiện trong báo cáo hàng năm của Freedom House trên Journal of Democracy [Tạp chí Dân chủ]. Trong tổng kết khảo sát hàng năm của Freedom House về tự do, Arch Puddington đã cảnh báo về một “sự đẩy lùi dân chủ” ngày càng tăng vào năm 20065, năm 2007 và 2008 được mô tả là những năm “sụt giảm” của dân chủ6, tuyên bố sự xói mòn dân chủ đã “tăng tốc” vào năm 20097, và mô tả nền dân chủ toàn cầu đang “bị đè nén” vào năm 20108. Sau một khoảnh khắc ngắn ngủi lạc quan hồi Mùa xuân Ả Rập, Freedom House đã cảnh báo về một sự “thoái lui” của dân chủ vào năm 2012 và “sự khôi phục nền độc tài” vào năm 2013.9

Đây thực sự là một bức tranh ảm đạm. Tuy nhiên điều này không hoàn toàn chính xác. Có rất ít bằng chứng cho thấy rằng thiên đường dân chủ đang sụp đổ hay (tùy bạn chọn tin vào truyền thuyết nào) rằng nền độc tài đã hồi sinh.10 Tình trạng dân chủ toàn cầu vẫn ổn định trong thập kỷ qua, và nó đã được cải thiện rõ rệt so với những năm 1990. Chúng tôi cho rằng các cảm nhận về một cuộc suy thoái dân chủ bắt nguồn từ một nhận thức sai lầm về các sự kiện xảy ra vào đầu những năm 1990. Sự lạc quan quá mức và sự duy ý chí tràn ngập trong những phân tích về quá trình chuyển đổi thời kỳ đầu sau Chiến tranh Lạnh đã tạo ra những kỳ vọng không thực tế, và khi chúng không được hiện thực hóa đã gây ra sự bi quan và ảm đạm bị phóng đại quá mức. Trong thực tế, mặc dù điều kiện toàn cầu ngày càng bất lợi trong những năm gần đây, những nền dân chủ mới vẫn còn tương đối mạnh mẽ.

Các số liệu kinh nghiệm

Nhìn vào các số liệu kinh nghiệm cho thấy rất ít hoặc không có bằng chứng nào về một cuộc suy thoái dân chủ. Chúng tôi đã so sánh điểm số của bốn chỉ số dân chủ toàn cầu nổi tiếng: Freedom House, Polity, Economist Intelligence Unit, và Bertelsmann.11 Bảng 1 cho thấy mức độ trung bình của mỗi chỉ số về dân chủ (dựa trên thang điểm chuẩn hóa từ 0 đến1) từ năm 2000 đến 2013. Điểm số dân chủ trung bình của cả bốn chỉ số vẫn giữ nguyên hoặc tăng lên trong giai đoạn này. Theo các chỉ số dân chủ hàng đầu như Freedom House và Polity, ngày nay thế giới trở nên dân chủ hơn so với năm 2000 (và dân chủ hơn rất nhiều so với năm 1990 hay bất kỳ năm nào trước đó). Ngay cả khi chúng ta chọn thời điểm giữa những năm 2000 – thường được coi là những năm khởi đầu của suy thoái dân chủ – là điểm khởi đầu của chúng ta, thì ba trong bốn chỉ số cho thấy hoặc không có sự thay đổi hoặc có một sự cải thiện nhẹ.12 Chỉ Freedom House cho thấy sự tụt giảm trong khoảng giữa các năm 2005 và 2013, và sự sụt giảm này (từ 0,63 xuống còn 0,62) là vô cùng khiêm tốn.

Nếu chúng ta khảo sát toàn bộ các nền dân chủ trên thế giới, dữ liệu cũng tương tự thừa nhận sự ổn định thay vì sự tụt giảm. Bảng 2 là điểm số của bốn chỉ số cho một vài nền dân chủ, cũng như tỷ lệ phần trăm của các chế độ được coi là hoàn toàn dân chủ trên thế giới trong khoảng từ năm 2000 đến 2013. Một lần nữa, Freedom House và Polity cho thấy sự gia tăng số lượng các nền dân chủ từ năm 2000. Chỉ khi chúng ta nhìn vào khoảng thời gian 2005–2013, chúng ta mới thấy có sự tụt giảm, và nó cũng rất khiêm tốn. Freedom House chỉ ra sự tụt giảm của một nền dân chủ trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2013. Điều tương tự cũng xảy ra đối với tỷ lệ phần trăm của các nước dân chủ trên thế giới: Cả Freedom House và Polity đều cho thấy có sự tụt giảm một phần trăm trong thời gian từ năm 2005 đến 2013.

Như một thước đo bổ sung, chúng tôi đã khảo sát tất cả các trường hợp có sự thay đổi đáng kể về chế độ – được định nghĩa là các nước có điểm số Freedom House tăng hoặc giảm ba điểm trở lên – từ năm 1999 đến 2013. Trong khi có 23 quốc gia có điểm số Freedom House tăng đáng kể từ 1999 đến 2013, thì chỉ có 8 nước giảm điểm số. Ngay từ giữa giai đoạn 2005 đến 2013, số lượng các trường hợp có điểm số tăng đáng kể (10) vẫn lớn hơn số lượng giảm đáng kể (8). Hơn nữa, hầu hết những trường hợp có điểm số tụt giảm đáng kể không xảy ra trong các nền dân chủ, mà trong các chế độ đã là độc tài ngay từ đầu, như Cộng hòa Trung Phi, Gambia, Guinea–Bissau, và Jordan.

Thật vậy, điều nổi bật nhất trong giai đoạn 2000 đến 2013 là chỉ một số rất nhỏ các nền dân chủ thực sự bị sụp đổ. Bảy nước mà Freedom House phân loại là Tự do vào cuối những năm 1990, ngày nay đã không còn được phân loại là Tự do gồm: Bolivia, Ecuador, Honduras, Mali, Philippin, Thái Lan, và Venezuela.13 Trong số bảy trường hợp này, điểm số của Ecuador, Bolivia, và Philippines chỉ giảm nhẹ, và cả ba chế độ vẫn còn là các nền dân chủ ở biên trong năm 2014 (thực ra, Philippin đã tái dân chủ hóa; việc Freedom House quyết định coi nó là Tự do Một phần dường như để phản ánh các vấn đề tham nhũng, chứ không phải vì nó vi phạm các quy tắc dân chủ). Honduras và Mali đã trải qua các cuộc đảo chính quân sự lần lượt vào năm 2009 và 2012, nhưng cả hai cuộc chuyển đổi độc tài này đã bị đảo ngược sau đó.14 Vậy là còn lại Thái Lan và Venezuela là các chế độ dân chủ rõ ràng duy nhất đã sụp đổ và vẫn còn độc tài trong năm 2014.

Danh sách các trường hợp sụp đổ có thể bổ sung Nicaragua và Sri Lanka, hai nền cận dân chủ (được Freedom House phân loại là Tự do Một phần vào cuối năm những 1990) đã thoái hóa thành chế độ độc tài trong những năm 2000. Chúng ta cũng có thể thêm Hungary (vẫn còn được Freedom House phân loại là Tự do vào năm 2013), mặc dù nó vẫn còn, ở mức tệ nhất, là một trường hợp biên. Thổ Nhĩ Kỳ, đôi khi được gắn nhãn là một trường hợp sụp đổ dân chủ, đã trải qua một quá trình chuyển đổi từ một chế độ lai sang một chế độ lai khác. Mặc dù chính quyền AKP mang khuynh hướng độc tài rõ ràng, song chế độ trước nó – được đánh dấu bởi ảnh hưởng lớn của giới quân sự, những hạn chế đối với các đảng phái của Kurd và Islam, và sự đàn áp mạnh các phương tiện truyền thông – đã chưa bao giờ dân chủ (trong thực tế, điểm số Freedom House của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2013 tốt hơn so với trước chiến thắng bầu cử lần đầu của AKP vào năm 2002).

Ngay cả khi chúng ta phân loại tất cả các trường hợp này là những nền dân chủ bị sụp đổ, mặc dù thực tế rằng hầu hết trong số đó là các trường hợp biên (Bolivia, Ecuador, Hungary, Philippin) hay các trường hợp mà khuynh hướng độc tài đã bị đảo ngược (Honduras, Mali, Philippin), thì số nền dân chủ sụp đổ bằng với số trường hợp dân chủ được củng cố. Tám quốc gia – bao gồm cả một số quốc gia rất quan trọng – bắt đầu được xếp vào hạng Tự do của Freedom House trong những năm 2000 và vẫn còn như vậy cho đến nay gồm: Brazil, Croatia, Ghana, Indonesia, Mexico, Peru, Senegal, và Serbia.15 Danh sách này không bao gồm các nước đã được phân loại là Tự do song vẫn trải qua những tiến bộ lớn về dân chủ, như Chile (trong trường hợp Chile, là việc thiết lập sự kiểm soát hoàn toàn của dân sự đối với quân sự). Danh sách này không bao gồm các quốc gia như Nepal, Pakistan, và Tunisia, vốn đã trở nên dân chủ hơn rất nhiều sau khoảng giữa những năm 2000, nhưng vẫn nằm trong nhóm Tự do Một phần theo Freedom House.

Do đó, bức tranh chính trong thập kỷ qua cho thấy sự ổn định thực sự. Dù chắc chắn có thể xác định các trường hợp thụt lùi về dân chủ, song sự tồn tại của một số lượng tương đương hoặc lớn hơn của những trường hợp tiến bộ về dân chủ đã chứng tỏ rằng bất kỳ quan niệm nào về sự “khủng hoảng” dân chủ toàn cầu đều là sai lầm. Như Bảng 1 và 2 chỉ rõ, sự thay đổi thực sự kể từ giữa những năm 2000 về cơ bản là bằng không. Thái Lan, Venezuela, và có lẽ Hungary đang trải qua sự suy thoái dân chủ. Nhưng lời tuyên bố về một cuộc suy thoái dân chủ trên toàn thế giới là thiếu cơ sở thực tế.

 

Ảo tưởng về sự tụt giảm

Tại sao nhiều nhà quan sát cho rằng đang có một cuộc suy thoái dân chủ trong khi các bằng chứng về cuộc suy thoái ấy lại quá nghèo nàn? Tình hình về chế độ cai trị trên toàn cầu ngày nay có vẻ ảm đạm vì các nhà quan sát đã nhìn vào những sự kiện của thời kỳ đầu sau Chiến tranh Lạnh qua lăng kính màu hồng. Vào những năm đầu thập niên 1990, nhiều nhà quan sát rơi vào một thái độ lạc quan quá mức – thậm chí duy ý chí – khi mà hầu như tất cả các hình thức khủng hoảng độc tài hay sự bất ổn chế độ cai trị đều được coi là đồng nhất với dân chủ hóa.16

Sự lạc quan quá mức ở những năm đầu thập niên 1990 đã được định hình, một phần bởi những quá trình dân chủ hóa thành công đáng kinh ngạc trong thời kỳ đầu của “làn sóng thứ ba” (1974–1989). Ở Nam Âu (Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha), Nam Mỹ (Argentina, Brazil, Chile, Uruguay), và Trung Âu (Bulgaria, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan), các cuộc khủng hoảng độc tài chắc chắn dẫn đến dân chủ hóa. Những cởi mở ban đầu của các chế độ độc tài hầu như luôn thoát khỏi sự kiểm soát của giới chóp bu của chế độ, và tiến triển thành những chuyển đổi hoàn toàn. Và khi các chế độ độc tài sụp đổ, chúng hầu như luôn được thay thế bởi các chế độ dân chủ.

Khi nhìn lại, rõ ràng những chuyển đổi thời kỳ đầu của làn sóng thứ ba khác hoàn toàn với những chuyển đổi sau đó ở châu Phi và các nước thuộc Liên Xô cũ. Những chuyển đổi ở Nam Âu, Nam Mỹ, Trung Âu xảy ra trong các điều kiện thuận lợi giúp cho quá trình dân chủ hóa thành công, bao gồm cả những mức phát triển tương đối cao, các phong trào công dân và các phong trào đối lập mạnh mẽ, những nhà nước vận hành tốt, và mối quan hệ rộng mở với phương Tây. Tuy nhiên, các nhà quan sát đã tổng quát hóa những trường hợp này, từ đó rút ra ít nhất hai bài học sai lầm song lại định hình một cách mạnh mẽ cho cái cách mà họ dùng để giải thích sự chuyển đổi hồi những năm 1990.17 Đầu tiên, các nhà quan sát đã bắt đầu đánh đồng sự sụp đổ của chế độ độc tài với sự dân chủ hóa. Sự sụp đổ của một chế độ độc tài có thể mang lại các kết quả khác nhau, từ dân chủ (Ba Lan sau 1989) đến thiết lập một chế độ độc tài mới (Iran sau năm 1979) đến sự sụp đổ của nhà nước và tình trạng hỗn loạn (Libya sau 2011). Trên thực tế, về mặt lịch sử, hầu hết sự sụp đổ của chế độ độc tài đã không mang lại dân chủ hóa.18 Như vậy, mặc dù sự sụp đổ của một chế độ độc tài tạo ra cơ hội cho sự dân chủ hóa, song không có cơ sở lý luận hoặc kinh nghiệm nào để khẳng định về một kết quả như vậy. Tuy nhiên, đó lại chính xác là những gì mà nhiều nhà quan sát đã làm trong những năm 1990. Bất cứ nơi nào mà chế độ độc tài sụp đổ và các nhóm đối lập lên nắm quyền, thì sự chuyển tiếp được họ mô tả là quá trình dân chủ hóa, còn các chế độ theo sau được họ dán nhãn là “nền dân chủ mới.”

Thứ hai, tất cả những cởi mở của chế độ độc tài đã được họ giả định là đánh dấu cho sự khởi đầu của một quá trình chuyển đổi mà cuối cùng sẽ dẫn đến dân chủ. Do đó, thậm chí một sự cởi mở giới hạn, vốn nhằm làm chệch hướng áp lực quốc tế, cũng được người ta kỳ vọng rằng nó sẽ giải phóng sự kiểm soát của nhà độc tài và đi con đường của riêng nó, như đã từng xảy ra tại các quốc gia như Brazil, Chile, Hungary, Ba Lan và Tây Ban Nha. Những mong đợi như vậy đã phớt lờ cái thực tế là những kẻ chuyên quyền có thể (và thường) thực hiện các cải cách “giả tạo” nhằm xoa dịu cuộc khủng hoảng ngắn hạn, và sau đó tiếp tục sử dụng việc kiểm soát quân đội, cảnh sát và các nguồn thu lớn để tái củng cố quyền lực một khi cuộc khủng hoảng đã đi qua.

Xu hướng đánh đồng sự khủng hoảng của chế độ độc tài và sự chuyển đổi dân chủ đã tăng cường mạnh mẽ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự sụp đổ của Liên Xô đã tạo ra một nhận thức rộng rãi rằng chế độ dân chủ tự do là “lựa chọn duy nhất trong cuộc chơi”. Vì tất cả các con đường dường như đều dẫn đến dân chủ, nên các nhà quan sát bắt đầu giải thích tất cả các cuộc khủng hoảng chế độ là sự phôi thai của quá trình chuyển đổi dân chủ.

Suy nghĩ quá lạc quan này đã dẫn các nhà quan sát tới chỗ sai lầm khi miêu tả nhiều cuộc khủng hoảng chế độ thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Mặc dù giai đoạn những năm 1990 được coi là thập kỷ của sự dân chủ hóa chưa từng thấy, song một cách chính xác hơn thì chúng phải được mô tả là một thời kỳ khủng hoảng độc tài chưa từng thấy. Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đặt ra một thách thức lớn cho các nhà độc tài. Cả các quốc gia lệ thuộc của Liên Xô lẫn các chế độ độc tài chống cộng do phương Tây hậu thuẫn đều đã mất đi sự hỗ trợ bên ngoài. Các nền dân chủ phương Tây nổi lên như một trung tâm thống trị về sức mạnh quân sự và kinh tế, và Mỹ và Liên minh châu Âu bắt đầu thúc đẩy dân chủ ở một mức độ chưa từng thấy. Đồng thời, các cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc đã lấy đi của các nhà độc tài các nguồn lực cần thiết để duy trì quyền lực. Các nhà nước bị phá sản trên suốt phần lớn châu Phi và các nước thuộc Liên Xô cũ, khiến các chính phủ không thể trả lương cho quân đội, cảnh sát và công chức. Trong nhiều trường hợp (Albania, Benin, Campuchia, Georgia, Haiti, Liberia, Madagascar, Tajikistan, Zaire), nhà nước hoặc sụp đổ hoặc đứng ở bờ vực sắp sụp đổ.

Do đó, các điều kiện vào đầu những năm 1990 thực chất là một “cơn bão hoàn toàn” thực tế đối với các chế độ độc tài. Khắp châu Phi, Liên Xô cũ, và các nơi khác, các nhà độc tài đã phải đối mặt cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, nhà nước yếu kém hoặc đang sụp đổ, và áp lực to lớn của quốc tế cho các cuộc bầu cử đa đảng. Thiếu đi nguồn lực, đồng minh bên ngoài, hay các thiết chế cưỡng chế đáng tin cậy, rất nhiều chế độ độc tài đã rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng. Kết quả là hình thành một “chủ nghĩa đa nguyên” rộng rãi,19 trong đó sự cạnh tranh – và thậm chí là sự chuyển giao – đã xảy ra, vì các chính phủ thậm chí thiếu các phương tiện cơ bản để ngăn cản các thách thức đối lập. Các nhà độc tài bị lật đổ ở Albania, Belarus, Benin, Cộng hòa Trung Phi, Congo–Brazzaville, Georgia, Madagascar, Malawi, Mali, Moldova, Niger, Ukraine, và Zaire không phải vì họ phải đối mặt với các phong trào dân chủ mạnh mẽ, mà vì họ bị phá sản, nhà nước của họ đang ở trong tình trạng lộn xộn, và trong nhiều trường hợp họ đã bị mất kiểm soát đối với các công cụ cưỡng chế. Tương tự, các chính quyền ở Campuchia, Cameroon, Gabon, Kyrgyzstan, Mozambique, Nga và các nước khác đã chấp nhận các cuộc bầu cử đa đảng cạnh tranh vì họ thậm chí không còn khả năng tối thiểu để chống lại chúng.

Những khoảnh khắc yếu đuối và bất ổn này của các chế độ độc tài đã bị người ta đánh đồng một cách rộng rãi với sự dân chủ hóa. Do đó, sự đi lên nắm quyền của những người không theo cộng sản ở Nga và các nước hậu Xô Viết khác, cũng như sự sụp đổ của nhà độc tài ở Madagascar, Malawi, Niger, Zambia, và các quốc gia châu Phi khác, đã thường xuyên được mô tả như là quá trình chuyển đổi dân chủ. Tương tự như vậy, việc tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng ở Angola, Campuchia, Cameroon, Gabon, Guiné–Bissau, Kenya, Mozambique và Tanzania được cho là dấu hiệu của sự khởi đầu của quá trình chuyển đổi dân chủ, tuy còn “thiếu sót” hay “dai dẳng’’. Gần như tất cả các chế độ này được mô tả là “các nền dân chủ mới” hay, ở mức tối thiểu, là một kiểu dân chủ tối giản (ví dụ như dân chủ bầu cử, không tự do, không được củng cố).20 Sự lạc quan này được chia sẻ bởi Freedom House, nó đã tăng bậc cho các chế độ chuyên quyền ở Gabon, Jordan, Kazakhstan, Uzbekistan, và thậm chí chế độ toàn trị ở Turkmenistan lên vị trí Tự do Một phần trong những năm đầu thập niên 1990.

Những đánh giá này phần lớn là sai lầm. Nhiều cuộc khủng hoảng độc tài vào những năm đầu và giữa thập niên 1990 đã không tạo thành phong trào hướng tới dân chủ. Nhiều chế độ độc tài bị sụp đổ vì nhà nước của nó hoặc sụp đổ (ví dụ Azerbaijan, Georgia, Sierra Leone, Tajikistan, Zaire) hoặc bị suy yếu đáng kể (ví dụ Belarus, Madagascar, Malawi, Ukraine). Sự sụp đổ của nhà nước dẫn đến bạo lực và bất ổn; mà hầu như không bao giờ mang lại dân chủ hóa. Trên thực tế, nhiều “sự cởi mở” chế độ khác lại là những giây phút suy yếu nhất thời một cách kỳ lạ, không được thúc đẩy bằng áp lực của xã hội cho dân chủ mà bằng cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, sự yếu kém của nhà nước, hay những yếu kém trước bên ngoài. Ví dụ, nền chính trị Nga đã có tính cạnh tranh trong những năm đầu thập niên 1990 không phải vì Boris Yeltsin ủng hộ một quá trình chuyển đổi dân chủ, mà vì ông lãnh đạo một nhà nước trong tình trạng lộn xộn, khiến ông không thể kiểm soát các lực lượng an ninh, giới quan liêu, và các chính phủ khu vực của mình. Tương tự, các cuộc bầu cử cạnh tranh năm 1993 của Campuchia là một sản phẩm của nhà nước hầu như sụp đổ sau khi Việt Nam và Liên Xô rút lui. Sự phá sản và sự cô lập quốc tế buộc chính phủ Hun Sen phải nhường quyền kiểm soát quá trình bầu cử cho Liên Hợp Quốc. Tương tự như vậy, các nhà độc tài ở Cameroon và Gabon, khi đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, các cuộc bạo động, và bóng ma của sự cô lập quốc tế, đã buộc phải tổ chức các cuộc bầu cử cạnh tranh một cách bất thường vào đầu những năm 1990.

Đối với các nhà quan sát, vốn coi các trường hợp của chủ nghĩa đa nguyên là quá trình chuyển đổi dân chủ, thì sự phát triển của những năm 2000 chắc chắn là đáng thất vọng. Những điều kiện của “cơn bão hoàn toàn” ở đầu thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh cuối cùng đã qua đi. Đối với chúng ta, nền kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển đã được cải thiện trong những năm 1990, và nhờ vào giá cả hàng hóa tăng cao, nhiều nền kinh tế trong số đó đã bùng nổ trong những năm 2000. Do đó, các chính phủ mà một thập kỷ trước đó vốn thiếu tiền để duy trì mạng lưới bảo trợ hoặc thậm chí trả lương cho binh sĩ và giới quan liêu thì bây giờ lại dư thừa nguồn lực – điều này giúp khôi phục năng lực nhà nước ở một mức độ tối thiểu.

Thứ hai, các nhà độc tài đã thích ứng với môi trường thời kì hậu Chiến tranh Lạnh. Các nhà cai trị vốn thiếu hiểu biết về cách sống sót trong bối cảnh của các cuộc bầu cử đa đảng đã gần như mất đi quyền lực vào đầu những năm 1990, cuối cùng giờ đây họ đã học được cách điều khiển các cuộc bầu cử cạnh tranh, hợp tác với truyền thông độc lập và đối địch, kiểm soát khu vực tư nhân, và ngăn chặn nguồn lực của các nhóm dân sự và phe đối lập mà không cần sử dụng đến việc đàn áp hay gian lận trơ trẽn, những thứ vốn có thể kích hoạt một cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp trong nước và sự cô lập quốc tế. 21

Thứ ba, môi trường địa chính trị đã thay đổi. Sự ảnh hưởng to lớn của Hoa Kỳ và EU, vốn đã đạt đỉnh điểm ngay sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đã giảm trong những năm 2000. Đồng thời, sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc, Nga và các cường quốc khu vực khác, cùng với giá dầu tăng, tạo ra nhiều không gian hơn cho các nhà độc tài ở châu Á, Liên Xô cũ, và Châu Phi.

Vào những năm 2000, sự phục hồi kinh tế, tái xây dựng lại nhà nước, và một môi trường quốc tế thoải mái hơn đã làm giảm mức độ yếu kém và bất ổn của chế độ độc tài – vốn đã là đặc trưng của phần lớn châu Phi, Liên Xô cũ, và châu Á trong thời gian đầu của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Ít bị áp lực quốc tế hơn, và với nguồn thu lớn hơn và nhà nước hiệu quả hơn theo ý của họ, các chế độ độc tài vốn rất dễ bị tổn thương trong những năm 1990 nay đã có thể tái củng cố quyền lực trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn, ở Campuchia, điều kiện tài chính được cải thiện và áp lực quốc tế giảm dần cho phép chính phủ Hun Sen tái thiết lập lại sự cai trị độc tài. Khi không có những ràng buộc về tài chính và áp lực bên ngoài đầu những năm 1990, đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền đã có thể đàn áp đối thủ và gian lận trong các cuộc bầu cử mà không bị trừng phạt. Tương tự như vậy, tổng thống Paul Biya ở Cameroon và Omar Bongo ở Gabon đã tái củng cố quyền lực vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, đảo ngược lại các nhượng bộ trước đó – chẳng hạn, giới hạn nhiệm kỳ theo hiến pháp – mà nhiều nhà quan sát đã giải thích như là những “sự cởi mở” theo hướng dân chủ. Quá trình tương tự của việc tái củng cố của chế độ độc tài cũng xảy ra ở Algeria, Angola, Miến Điện, Congo–Brazzaville, Mozambique, và các nơi khác.

Có thể quan sát thấy diễn biến tương tự ở Liên Xô cũ, nơi mà các chế độ từng được xem là yếu đuối và bất ổn trong thời kỳ đầu hậu cộng sản đã củng cố trong những năm 2000. Chẳng hạn, ở Nga, việc tái xây dựng nhà nước và giá dầu tăng cao cho phép chính phủ Putin kiểm soát các ngành tư nhân và truyền thông tư nhân, trấn áp đối thủ, và thao túng các cuộc bầu cử đến một mức độ không thể tưởng tượng được ở một thập kỷ trước đó.22 Ở Belarus, chính phủ của Alyaksandr Lukashenka thiết lập sự kiểm soát lớn đối với nền kinh tế trong nửa cuối của những năm 1990, điều này cho phép ông bóp chết các đối thủ của mình một cách hiệu quả về nguồn lực. Các chế độ độc tài cũng củng cố ở Armenia, Azerbaijan và Tajikistan.

Tóm lại, tình hình tài chính được cải thiện, tái xây dựng lại nhà nước, và một môi trường quốc tế ít thù địch cho phép nhiều chế độ độc tài vốn suy yếu và không ổn định trong giai đoạn đầu thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh đã trở nên ổn định và thậm chí củng cố trong những năm cuối thập niên 1990 và đầu những năm 2000. Không có gì ngạc nhiên, khi mà các nước như Azerbaijan, Belarus, Campuchia, Cộng hòa Trung Phi, Congo–Brazzaville, Gabon, Guinea–Bissau, Jordan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan, tất cả đều được Freedom House tăng bậc một cách lạc quan lên hạng Tự do Một phần vào đầu những năm 1990, cuối cùng đã bị hạ cấp xuống mức Không Tự do.

Những chuyển dịch từ chế độ độc tài yếu kém hoặc bất ổn sang sự cai trị độc tài ổn định hơn thường được xem là các trường hợp dân chủ hóa thất bại, và được coi là bằng chứng của một cuộc suy thoái dân chủ. Những đánh giá như vậy là sai lầm. Nhiều trong số các chế độ này chưa bao giờ là dân chủ, và ở một vài chế độ (ví dụ, Azerbaijan, Campuchia, Jordan, Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan), dân chủ chưa bao giờ được xem xét một cách nghiêm túc trong chương trình nghị sự. Cũng như cuộc khủng hoảng độc tài không nên bị đánh đồng với quá trình chuyển đổi dân chủ, sự (tái) củng cố của các chế độ độc tài không nên bị đánh đồng với sự thụt lùi dân chủ.

Trong các trường hợp khác, sự bất ổn chế độ – thường bắt nguồn từ sự thất bại của nhà nước – đã tạo nên “khoảnh khắc” dân chủ ngắn ngủi, trong đó áp lực quốc tế hoặc sự yếu đuối cùng cực của tất cả các tác nhân chính trị chính cho phép cho các cuộc bầu cử cạnh tranh và chuyển giao (ví dụ, Bangladesh 1991; Haiti năm 1991; Congo–Brazzaville năm 1992; Belarus năm 1994; Niger năm 1999; Guinea–Bissau 2000; Madagascar 2002; Burundi 2005). Mặc dù những trường hợp này có thể là “dân chủ” tối thiểu theo nghĩa bầu cử, nhưng chúng đã không còn như vậy ngay sau khi chính phủ mới nhậm chức – và do đó không thể được mô tả là các chế độ dân chủ. Thật vậy, sự luân chuyển xảy ra dưới điều kiện hoàn toàn thuận lợi cho các kết quả phi dân chủ: các thiết chế dân chủ chỉ tồn tại trên giấy (trong nhiều trường hợp, chúng chưa bao giờ được thử nghiệm); các nhà nước yếu hay sụp đổ, dẫn đến chủ nghĩa tân thân hữu phổ biến và sự vắng mặt của pháp quyền; khu vực tư nhân nhỏ và phụ thuộc nhà nước; và xã hội dân sự và các đảng đối lập yếu và thiếu tổ chức. Sự kết hợp của nhà nước tân thân hữu và xã hội nghèo đói mang lại cho những người đương nhiệm lợi thế lớn từ đầu, và với sự vắng mặt của các thiết chế dân chủ, xã hội dân sự, hay một tổ chức đối lập, thì sự ràng buộc đối với việc lạm dụng độc tài là rất nhỏ. Trong điều kiện như vậy, các chính phủ mới gần như chắc chắn lạm dụng quyền lực, gây ra sự bất ổn chế độ hoặc một dạng độc tài khác.

Do đó, “khoảnh khắc dân chủ” tỏ rõ là mang tính nhất thời, nếu không nói là ảo tưởng, trong các trường hợp được liệt kê ở trên. Ví dụ, Congo–Brazzaville trải qua cuộc bầu cử năm 1992, nhưng tổng thống mới Pascal Lissouba ngay lập tức giải tán quốc hội và tổ chức các cuộc bầu cử gian lận, gây ra một cuộc tẩy chay của phía đối lập và cuối cùng rơi vào cuộc nội chiến và độc tài. Tương tự như vậy, các cuộc bầu cử cạnh tranh của Burundi trong năm 2005 khiến Freedom House coi nó là một “nền dân chủ bầu cử”, nhưng Tổng thống Domitien Ndayizeye ngay lập tức bắt đầu bắt giữ các lãnh đạo và các nhà báo phe đối lập, và các cuộc bầu cử tiếp theo đã bị phá hỏng bởi sự gian lận và đàn áp. Ở Guinea–Bissau, sự lật đổ João Bernardo Vieira vào năm 1999 đã dẫn đến các cuộc bầu cử được quốc tế tài trợ với chiến thắng của lãnh đạo đối lập Kumba Yala (khiến Freedom House coi nước này là một nền dân chủ bầu cử). Nhưng Yala là một nhà độc tài như người tiền nhiệm của mình, qua việc đóng cửa các tờ báo và bắt giữ các lãnh đạo phe đối lập và chủ tịch của Tòa án Tối cao trước khi bị lật đổ trong một cuộc đảo chính vào năm 2003.

Các tổng thống mới được bầu cũng ngay lập tức lạm dụng quyền lực ở Bangladesh, Belarus, Cộng hòa Trung Phi, Haiti, Madagascar, Niger, và các nơi khác. Những chế độ này chưa bao giờ là dân chủ theo bất kỳ nghĩa nào, với bất kỳ khoảng thời gian đáng kể nào. Do đó, việc gán cho chúng là những trường hợp “sụp đổ dân chủ” là hoàn toàn sai lầm. Và hầu hết các trường hợp sụp đổ được nêu ra bởi những người ủng hộ luận điểm suy thoái dân chủ chính xác là thuộc dạng này – gồm 25 trường hợp sụp đổ sau năm 2000 trong bài báo của Larry Diamond về vấn đề này.

Gần hai phần ba trong số những trường hợp sụp đổ này là các chế độ đó mà (may mắn lắm thì) chỉ thuộc kiểu “khoảnh khắc dân chủ” ngắn ngủi. Nếu chúng ta giới hạn các phân tích của chúng ta ở các chế độ dân chủ thực sự – được định nghĩa là những chế độ trong đó có ít nhất một chính phủ được bầu ra một cách dân chủ, tổ chức các cuộc bầu cử tự do và chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho người được bầu kế tiếp – thì 16 trong số 25 “trường hợp sụp đổ dân chủ” của Diamond biến mất. Trong số 9 trường hợp sụp đổ còn lại,23 chỉ 5 trường hợp vẫn còn là các chế độ độc tài vào năm 2014, và một trong số đó là một nhà nước được bảo hộ.

Không có dân chủ hóa trong những năm 2000

Sự bi quan hiện nay về số phận của nền dân chủ toàn cầu cũng được bắt nguồn từ sự duy ý chí quá mức. Nhiều người trong số những ai cho rằng dân chủ đang thụt lùi lại ít tập trung vào sự thụt lùi dân chủ, mà chủ yếu tập trung vào sự vắng mặt của tiến bộ dân chủ. Trong thực tế, việc dân chủ hóa không diễn ra ở Trung Quốc, Trung Đông, hoặc Trung Á được coi là một sự thụt lùi. Ví dụ, báo cáo năm 2009 của Puddington trên Tạp chí Dân chủ tuyên bố rằng “có lẽ sự phát triển đáng thất vọng nhất” tại châu Á vào năm 2008 là “sự thất bại của Trung Quốc trong việc thực hiện những cải cách dân chủ quan trọng… trong năm mà nó là chủ nhà của Thế vận hội Olympic”.24 Năm sau đó, ông nêu ra thất bại của chính phủ Kazakhstan trong việc tiến hành cải cách chính trị là bằng chứng của một “vòng xoáy đi xuống” ở Trung Á và chỉ ra rằng sự vắng mặt của tự do hóa chính trị ở Cuba là bằng chứng của việc “tiếp tục xói mòn sự tự do trên toàn thế giới”.25 Bài báo trên Tạp chí Dân chủ gần đây nhất của Puddington nêu ra các kỳ vọng không được đáp ứng – trái với sự thụt lùi thực tế – như là nguồn gốc của tình trạng ảm đạm của dân chủ, bài báo viết rằng mặc dù các nhà quan sát đã “dự đoán rằng Trung Quốc sẽ nhanh chóng phát triển hướng tới một hệ thống tự do hơn và có lẽ dân chủ hơn”, song thay vào đó chính phủ đã phát triển các chiến lược mới “được thiết kế để duy trì sự cai trị độc đảng một cách cứng rắn”.26

Sự thất bại của chế độ độc tài ở Trung Quốc, Trung Đông, hoặc Trung Á trong việc dân chủ hóa không nên được xem là bằng chứng về sự thoái lui dân chủ. Điều này không nên làm chúng ta ngạc nhiên. Vào giữa những năm 2000, hầu hết các quốc gia với điều kiện thuận lợi tối thiểu cho dân chủ đã dân chủ hóa. Với một ít các trường hợp ngoại lệ (ví dụ, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, và bây giờ là Venezuela), họ đã chọn những mục tiêu dễ đạt được. Ngày nay, hầu hết các chế độ phi dân chủ còn lại của thế giới đang tồn tại trong các nước mà lý thuyết hiện tại coi là không có khả năng dân chủ hoá.27

Theo một cơ quan nghiên cứu lớn, quá trình dân chủ hóa ổn định không có khả năng xảy ra ở các quốc gia rất nghèo với nhà nước yếu (ví dụ nhiều nước ở tiểu vùng Sahara châu Phi), các chế độ quân chủ có dầu mỏ và có sự hỗ trợ của phương Tây (ví dụ các quốc gia vùng Vịnh), và các chế độ độc đảng với nhà nước mạnh và tốc độ tăng trưởng cao (Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Singapore). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng dân chủ ít có khả năng xảy ra ở các nước ít có mối liên kết với phía Tây (ví dụ, Trung Á, phần lớn châu Phi) và ở các chế độ sinh ra từ các cuộc cách mạng bạo lực (Trung Quốc, Ethiopia, Eritrea, Việt Nam, Cuba, Iran, Lào, Bắc Triều Tiên). Nếu chúng ta coi trọng những bài học này, vốn được rút ra từ vài thập kỷ nghiên cứu, thì ngày nay có tương đối ít các quốc gia có thể được coi là các nước không được như mong đợi về nền dân chủ chân chính. Sự trì trệ gần đây về số lượng tổng thể của các nền dân chủ trên thế giới có thể gây khó chịu, song nó hoàn toàn phù hợp với lý thuyết hiện hành.

Vậy thì, tại sao sự thiếu mở rộng dân chủ kể từ giữa những năm 2000 đã gây ra rất nhiều sự bi quan và ảm đạm như vậy? Một lý do là bởi những kỳ vọng không có cơ sở đã được nuôi dưỡng từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Sau các sự kiện đáng kinh ngạc trong những năm 1989–1991, nhiều nhà quan sát chỉ đơn giản cho rằng làn sóng của những tiến bộ dân chủ trong những năm 1980 và 1990 sẽ tiếp tục.

Một lý do khác cho sự thất vọng hiện tại là sự duy ý chí quá mức. Những sự dân chủ hóa thời kỳ đầu của làn sóng thứ ba đã giáng một đòn mạnh mẽ vào các lý thuyết cấu trúc cổ điển vốn đã chi phối trong những năm 1960 và 1970. Các lý thuyết này nhấn mạnh những trở ngại về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa đối với dân chủ hóa trong thế giới đang phát triển và thế giới cộng sản. Dân chủ hóa ở các nước như Bolivia, El Salvador, Ghana, và Mông Cổ đã làm rõ rằng dân chủ hóa có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Tuy nhiên, sự hoài nghi lành mạnh về cách phân tích theo kiểu cấu trúc thái quá này đã tiến hóa thành sự duy ý chí quá mức. Bằng chứng rằng các yếu tố cấu trúc như sự giàu có, bất bình đẳng thấp, hay một xã hội dân sự mạnh không phải là điều kiện tiên quyết cho dân chủ hóa đã khiến nhiều nhà quan sát đi tới chỗ kết luận rằng chúng không quan trọng về mặt nhân quả. Nói cách khác, bài học quan trọng rằng dân chủ hóa có thể xảy ra bất cứ nơi nào đã được một vài nhà quan sát đề ra để ám chỉ rằng nó phải xảy ra ở khắp mọi nơi.

Không có cơ sở lý thuyết hay kinh nghiệm đơn thuần nào cho những kỳ vọng như vậy. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố cấu trúc như mức độ phát triển, bất bình đẳng, hiệu quả kinh tế, sự giàu có tài nguyên thiên nhiên, năng lực nhà nước, sức mạnh của xã hội dân sự, và mối quan hệ với phương Tây tiếp tục gây ảnh hưởng lớn đến khả năng đạt được và duy trì nền dân chủ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các chế độ phi dân chủ còn lại trên thế giới lại tập trung tại các khu vực Trung Đông, châu Phi cận Sahara, và Liên Xô cũ. Nhiều nước ở các khu vực này được đặc trưng bởi nhiều yếu tố mà các học giả đã gắn liền với chế độ độc tài. Chúng ta có thể hy vọng (và thực hiện) quá trình dân chủ hóa ở các nước như Campuchia, Ethiopia, Kazakhstan, Libya, hay Iraq, nhưng những mong đợi rằng dân chủ hóa sẽ xảy ra trong những trường hợp này là thiếu nền tảng lý thuyết hay thực tiễn. Và sự quả quyết về những kỳ vọng không có cơ sở này không nên bị lẫn lộn với sự suy thoái dân chủ.

Tính dẻo dai đáng ngạc nhiên của dân chủ

Người ta đã thất vọng về sự thiếu dân chủ hóa ở những quốc gia mà dường như nó không có khả năng xuất hiện, song sự thất vọng này không nên che khuất những thành tựu dân chủ phi thường trong phần tư thế kỷ vừa qua. Khi Tạp chí Dân chủ ra mắt vào năm 1990, đã có 38 nước đang phát triển và hậu cộng sản được Freedom House xếp loại là Tự do. Trong năm 2014, con số này là 60.

Cũng ấn tượng như sự trải rộng của làn sóng thứ ba là sự mạnh mẽ của nó. Khi số đầu tiên của Tạp chí Dân chủ ra đời, các chế độ dân chủ mới ở Mỹ Latin và Trung Âu bị coi là bấp bênh. Các học giả về dân chủ hóa đã hoài nghi rằng liệu nhiều trong số chúng có thể kéo dài. Chẳng hạn, trong cuốn sách kinh điển của họ về quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài, Guillermo O’Donnell và Philippe Schmitter đã mô tả về Mỹ Latin như là “các nền dân chủ không chắc chắn”.28 Tương tự như vậy, chỉ vài học giả hy vọng rằng những chuyển đổi trong năm 1989 ở Trung Âu sẽ tạo ra các chế độ dân chủ ổn định. Tuy nhiên, với một vài ngoại lệ ngắn ngủi (ví dụ Peru 1992–2000), các nền dân chủ mới xuất hiện ở Nam Mỹ và Trung Âu hiện nay đã tồn tại trong một phần tư thế kỷ hoặc hơn. Hơn nữa, chúng đã tồn tại dẫu trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng và các cải cách kinh tế triệt để mà nhiều học giả tin là không tương thích với dân chủ. Từ năm 1990 tới năm 2000, một số quốc gia quan trọng khác đã tiến hành dân chủ hóa, bao gồm Croatia, Ghana, Indonesia, Mexico, Serbia, Slovakia, Nam Phi, và Đài Loan. Mặc dù một vài trong số những nền dân chủ mới này có sự phân chia chủng tộc hoặc sắc tộc sâu sắc, song chúng cũng tỏ ra khá mạnh mẽ.

Những điều này đã không thay đổi nhiều sau năm 2000. Sự sụp đổ dân chủ vẫn hiếm, thường ngắn ngủi, và nói chung là không tiêu biểu cho các xu hướng rộng hơn. Mặc dù dân chủ đã thoái lui ở Sri Lanka, Thái Lan, và Venezuela, nó vẫn tồn tại ở một loạt các quốc gia trọng yếu có thu nhập trung bình, bao gồm Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Croatia, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Ba Lan, Serbia, Nam Phi, Hàn Quốc, và Đài Loan. Dân chủ cũng đã tồn tại ở một vài quốc gia có điều kiện rất không thuận lợi, gồm Benin, Cộng hòa Dominica, El Salvador, Ghana, Guyana, Mông Cổ và Romania. Đây là những nước có ít hoặc không có truyền thống dân chủ, nhà nước yếu kém, mức độ nghèo đói và bất bình đẳng cao, và trong một số trường hợp là các xã hội chia rẽ sâu sắc. Tuy nhiên, nền dân chủ của chúng vẫn tồn tại, và một vài trong số chúng hiện nay đã hơn hai chục tuổi.

Trong một vài quốc gia quan trọng, dân chủ không chỉ tồn tại mà còn được tăng cường trong những năm 2000. Tại Brazil, vốn phải trải qua những vấn đề quản trị nghiêm trọng trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, sự ổn định và chất lượng của nền dân chủ đã cải thiện rõ rệt trong những năm 2000; ở Ấn Độ, việc mở rộng tỷ lệ tham gia, đặc biệt ở các công dân nghèo và thuộc đẳng cấp thấp hơn, đã tạo ra một nền dân chủ ngày càng hoàn chỉnh; ở Chile, một cuộc cải cách hiến pháp vào năm 2005 đã loại bỏ những ốc đảo độc tài còn lại và thiết lập sự kiểm soát hoàn toàn của dân sự đối với quân đội; ở Croatia, Ghana, Mexico, và Đài Loan, các đảng cầm quyền độc tài trước đó trở lại cầm quyền và cai trị một cách dân chủ – một bước quan trọng hướng đến giai đoạn củng cố. Và ở Colombia và Ba Lan, các thiết chế dân chủ kiểm soát một cách hiệu quả những tham vọng của các tổng thống có khuynh hướng chuyên quyền (Alvaro Uribe ở Colombia, Lech Kaczynski tại Ba Lan). Đây là những thành công lớn của dân chủ, mà nhiều trong số đó xảy ra ở các quốc gia lớn và có ảnh hưởng. Tuy nhiên, chúng ít nhận được sự quan tâm bằng sự thụt lùi dân chủ ở Thái Lan và Venezuela và việc dân chủ hóa không xảy ra ở Trung Quốc.

Những thành công này cho thấy một cách đánh giá khác đối với các sự kiện của những năm 2000. Trong thập kỷ vừa qua, một vài sự phát triển trên toàn cầu đã đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền dân chủ mới. Chúng bao gồm cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng sau năm 2008 ở các nền dân chủ phương Tây, sức ảnh hưởng ngày càng suy giảm của Mỹ và Liên minh châu Âu, sức mạnh ngày càng tăng và sự tự tin của Trung Quốc và Nga, và giá dầu tăng cao. Tuy nhiên, số trường hợp sụp đổ dân chủ thực tế là rất thấp.

Chắc chắn, câu chuyện thực tế về thập kỷ qua không phải là sự “khủng hoảng” của dân chủ, mà đúng hơn là tính dẻo sai của nó khi đối mặt với một bối cảnh địa chính trị ảm đạm. Sự dẻo dai này xứng đáng được tiếp tục nghiên cứu. Việc thấu hiểu nguồn gốc của nó có thể giúp những người ủng hộ dân chủ chuẩn bị cho cái ngày khi mà sự hồi sinh độc tài đang đến.

CHÚ THÍCH

  1. Xem Larry Diamond, “The Democratic Rollback: The Resurgence of the Predatory State,” Foreign Affairs 87 (tháng 3 – 4 năm 2008): 36–48; Diamond, “Democracy’s Deepening Recession,” com, 2 tháng 5 năm 2014; Arch Puddington, “The 2008 Freedom House Survey: A Third Year of Decline,” Journal of Democracy 20 (tháng 4 năm 2009): 93–107; Puddington, “The Freedom House Survey for 2009: The Erosion Accelerates,” Journal of Democracy 21 (tháng 4 năm 2010): 136–50; Joshua Kurlantzick, “The Great Democracy Meltdown,” New Republic, 9 tháng 5 năm 2011, 12–15, tnr.com.
  2. Diamond, “The Democratic Rollback,” 36.
  3. Kurlantzick, “The Great Democracy Meltdown.”
  4. Xem Robert Battison, “The ‘Democratic Recession’ Has Turned into A Modern Zeitgeist of Democratic Reform,” OpenDemocracy, 21 tháng 12 năm 2011.
  5. Arch Puddington, “The 2006 Freedom House Survey: The Pushback Against Democracy,” Journal of Democracy 18 (tháng 4 năm 2007): 125–37.
  6. Puddington, “A Third Year of Decline.”
  7. Puddington, “The Erosion Accelerates.”
  8. Arch Puddington, “The Freedom House Survey for 2011: Democracy Under Duress,” Journal of Democracy 22 (tháng 4 năm 2011): 17–31.
  9. Arch Puddington, “The Freedom House Survey for 2012: Breakthroughs in the Balance,” Journal of Democracy 24 (tháng 4 năm 2013): 49; Arch Puddington, “The Freedom House Survey for 2013: The Democratic Leadership Gap,” Journal of Democracy 25 (tháng 4 năm 2014): 90.
  10. Jay Ulfelder đưa ra một luận điểm tương tự. Xem Ulfelder, “The Democratic Recession That *Still* Isn’t,” http://dartthrowingchimp.wordpress.com/2014/01/23/the–democraticrecession–that–still–isnt.
  11. Để tiếp cận dữ liệu của Freedom House, xem org; Dữ liệu Polity: systemicpeace.org/polity/polity4.htm; dữ liệu Economic Intelligence Unit: www.eiu.com/public/topical_report.aspx?campaignid=Democracy0814; dữ liệu Bertelsmann: www.bti–project.org/index/.
  12. The Varieties of Democracy Index (không nhắc tới ở đây) cũng chỉ ra là không có sự suy tàn. Xem Staffan I. Lindberg và những người khác, “V–Dem: A New Way to Measure Democracy,” Journal of Democracy 25 (tháng 7 năm 2014): 162–63.
  13. Chúng tôi không tính tới các nhà nước nhỏ như Fiji (được Freedom House xếp loại Tự do trong năm 1999, nhưng người ta cho rằng nó không bao giờ có thể thiết lập được một chế độ dân chủ) và quần đảo Solomon. Hai quốc gia khác – là Argentina và Guyana – đã bị loại ra khỏi danh sách Tự do của Freedom House trong suốt những năm 2000, song đã được quay lại trong một năm.
  14. Tương tự, Ukraine (được xếp loại Tự do một phần vào cuối những năm 1990, song đã tiến hành dân chủ hóa vào giữa những năm 2000) đã trượt vào chủ nghĩa độc tài cạnh tranh vào năm 2010, nhưng chế độ này đã sụp đổ vào năm 2014.
  15. Vào năm 2011, Freedom House xếp Mexico lại vào danh sách các nước Tự do một phần, do tệ nạn ma túy tại đây. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một sự đồng thuận rộng rãi về mặt học thuật rằng Mexico vẫn là một chế độ dân chủ. Senegal cũng bị rơi vào danh sách Tự do một phần vào giữa những năm 2000, nhưng đến 2013 nó được đưa lại về danh sách Tự do.
  16. Một phê bình tương tự, xem Thomas Carothers, “The End of the Transition Paradigm,” Journal of Democracy 13 (tháng 1 năm 2002): 5–21; hoặc Marc Howard và Meir R. Walters, “Mass Mobilization and the Democracy Bias: A Comparison of Egypt and Ukraine,” Georgetown University (bản thảo chưa xuất bản).
  17. Xem Carothers, “End of the Transition Paradigm.”
  18. Xem Milan Svolik, The Politics of Authoritarian Rule (New York: Cambridge University Press, 2012).
  19. Lucan Way, “Pluralism by Default: Weak Autocrats and the Rise of Competitive Politics,” University of Toronto (bản thảo chưa xuất bản).
  20. Xem David Collier và Steven Levitsky, “Democracy with Adjectives: Conceptual Innovation in Comparative Research,” World Politics 49 (tháng 4 năm 1997): 430–51.
  21. Michael Bratton và Daniel Posner, “A First Look at Second Elections in Africa, with Illustrations from Zambia,” trong sách do Richard A. Joseph biên tập, State, Conflict, and Democracy in Africa (Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 1999), 387; Lucan Way, “Deer in Headlights: Incompetence and Weak Authoritarianism After the Cold War,” Slavic Review 71 (mùa thu năm 2012): 619–46.
  22. Xem Mikhail Myagkov, Peter C. Ordeshook, và Dimitri Shakin, The Forensics of Election Fraud: Russia and Ukraine (New York: Cambridge University Press, 2009).
  23. Những nước này là Venezuela và Thailand vào năm 2005, Solomon Islands, Honduras, Philippines, Sri Lanka, Nicaragua, Ukraine, và Mali.
  24. Puddington, “A Third Year of Decline,” 103.
  25. Puddington, “The Erosion Accelerates,” 137, 141.
  26. Puddington, “The Democratic Leadership Gap,” 90–91.
  27. Marc F. Plattner, “The End of the Transitions Era?” Journal of Democracy 25 (tháng 7 năm 2014): 5–16.
  28. Guillermo O’Donnell và Philippe C. Schmitter, Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions About Uncertain Democracies (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986).

Nguồn: Steven Levitsky và Lucan Way, “Is Democracy in Decline? – The Myth of Democratic Recession” (Liệu dân chủ có đang suy tàn? – Huyền thoại về sự suy thoái dân chủ, bản dịch của Minh Anh & Vi Yên nhóm Tinh Thần Khai Minh), Journal of Democracy 26 (tháng 1 năm 2015): trang 45 – 58.